Bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 2023

23/10/2023 | 08:01 71 lượt xem Loan

Tranh chấp liên quan đến việc tặng quyền sử dụng đất là một vấn đề phổ biến trong lĩnh vực bất động sản. Các tranh chấp này có thể phát sinh do sự không đồng ý giữa các bên về quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất được tặng. Nếu bạn đang tìm hiểu quy định pháp luật về vấn đề này thì có thể tham khảo các bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất để nắm được quá trình thực tiễn trong việc xét xử, giải quyết các vụ tranh chấp như thế này nhé!

Bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Tổng hợp bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Tranh chấp liên quan đến việc tặng quyền sử dụng đất là một vấn đề thường gặp trong lĩnh vực bất động sản. Đây là một tình huống pháp lý mà các bên tranh cãi về việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất được tặng. Dưới đây là một số bản án nổi bật về tranh chấp hợp đồng tặng co quyền sử dụng đất, nó rất có ích cho các bạn đang tìm hiểu, tham khảo và nghiên cứu thực tiễn quy định pháp luật về vấn đề này.

TTNỘI DUNGSỐ TRANG
01Bản án số: 103/2018/DS-PT ngày 21/5/2018 của Tòa án Nhân dân tỉnh Kiên Giang.V/v: Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.Nội dung vụ án:Bà H cùng gia đình sinh sống tại căn nhà số 178/6 Lâm Quang Ky, Tp. RG, Kiên Giang. Khi nhà nước giải tỏa căn nhà của bà ở đường Lâm Quang Ky, nhà nước đã hỗ trợ bà số tiền 12.000.000 đồng để di dời và có cấp cho bà một diện tích đất ở phường An Hòa, bà đã bán diện tích đất nói trên với giá là 47.000.000 đồng.Đến năm 2001 bà mới mua được miếng đất tại đường Lê PH, Tp. RG, Kiên Giang. Năm 2006, bà xây nhà ở trên thửa đất này từ đó cho đến nay.Ngày 29/10/2007, bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do thời điểm năm 2007, bà bệnh nặng nên Lý Thùy N có ý muốn đứng tên chung trong giấy chứng nhận, vì thấy N cam kết sẽ nuôi bà suốt đời nên bà có ký vào giấy cho đất.Từ đó, Lý Thùy N đã giữ toàn bộ giấy tờ nhà và đất, hộ khẩu của bà H.Kể từ ngày đã được đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà N đã ngược đãi và không chăm sóc bà H. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với bà N, buộc bà N phải giao trả nhà đất.Tại Bản án sơ thẩm quyết định:– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H về việc “Tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” đối với bà Lý Thùy N.– Buộc bà N phải có nghĩa vụ trả cho bà Bùi Thị H số tiền 319.714.000 đồng.– Ngày 24/10/2017, bà Lý Thùy N và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lý Bạch L, anh Bùi Nhất D có đơn kháng cáo cùng nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.– Ngày 03/11/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, có quyết định kháng nghị với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H.Nhận định của Tòa án phúc thẩm:Nguồn gốc nhà và đất tại số 80 Lê PH, thành phố RG, Kiên Giang là do bà H sử dụng tiền từ bán nền nhà tái định cư để nhận chuyển nhượng từ năm 2000. Bà H cho rằng khi lập hợp đồng tặng cho thì bà có yêu cầu bà N cam kết nuôi dưỡng, chăm sóc bà.Hội đồng xét xử thấy: mặc dù, bà N không thừa nhận việc các bên có thỏa thuận điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng bà H tặng cho bà N quyền sử dụng đất tại số 80 Lê PH, thành phố RG là tài sản duy nhất của bà H.Mặt khác, theo bà N và bà H trình bày thì từ năm 2003, bà H đã không còn lao động kiếm sống mà sống nhờ vào tiền tích lũy và nuôi dưỡng từ con, cháu. Nên việc bà H cho rằng tặng cho bà N quyền sử dụng đất kèm theo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ. Do đó, bản án sơ thẩm xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà H với bà N là hợp đồng tặng cho có điều kiện là phù hợp với quy định pháp luật.Bà N khi nhận tặng cho tài sản từ năm 2014 đến nay bà N không thực hiện đúng nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bà H. Ngày 19/01/2015, bà H đã làm đơn yêu cầu ban lãnh đạo khu phố giải quyết việc bà N đối xử tệ bạc với bà và đã được lập biên bản hòa giải vào ngày 29/01/2015.Hiện tại, bà H đã không còn sống cùng với bà N và bà N cũng không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bà H. Do đó, bà N đã vi phạm điều kiện được tặng cho tài sản nên bà H khởi kiện yêu cầu đòi giá trị tài sản là có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 470 Bộ luật dân sự 2005.Tòa án phúc thẩm quyết định:Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 50/2017/DS-ST ngày 23/10/2017 của Tòa án
nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.
01-10
02Bản án số 170/2018/DS-PT ngày 11/10/2018 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh.V/v: “Tranh chấp hợp đồng tặng cho có điều kiện”.Nội dung vụ án:Ngày 01/10/2017, hai gia đình của ông Phan Văn N và bà C1 tổ chức đám hỏi cho Phan Thanh D và Nguyễn Thị Thu N1, dự kiến đến ngày 21/11/2017 âm lịch sẽ tổ chức đám cưới. Tại đám hỏi, gia đình ông N có cho cô dâu đồ dùng, tiền có tổng giá trị: 37.968.000 đồng. Sau khi đám hỏi, giữa hai bên gia đình xảy ra mâu thuẫn làm cho đám cưới không thể diễn ra.Nay ông khởi kiện yêu cầu chị N1 trả lại cho vợ chồng ông số tiền 8.000.000 đồng là tiền quần áo cô dâu và tiền phụ đám cưới cùng toàn bộ số vàng tính ra thành tiền là 37.968.000 đồng; tổng cộng chị N1 phải thanh toán lại cho vợ chồng ông là 45.968.000 đồng. Đối với số tiền 10.000.000 đồng đã chi phí cho đám hỏi nên ông không yêu cầu.Tại Bản án dân sự sơ thẩm quyết định:– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện: Tranh chấp hợp đồng tặng cho có
điều kiện của ông Phan Văn N đối với chị Nguyễn Thị Thu N1. Buộc chị Nguyễn Thị Thu N1 có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thúy H số vàng cưới tính trị giá thành tiền là 37.986.000 đồng. Buộc bà Đỗ Thị C1 có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thúy H số tiền 5.000.000 đồng.– Các ngày 24, 25 tháng 7 năm 2018, chị Nguyễn Thị Thu N1 và bà Đỗ Thị C1 có đơn kháng cáo với nội dung: Chị N1 không đồng ý trả lại trị giá của số vàng cưới với số tiền 37.986.000 đồng; bà C1 không đồng ý trả số tiền 5.000.000 đồng và yêu cầu ông N, bà H bồi thường thiệt hại cho gia đình bà với số tiền 20.500.000 đồng là các khoản tiền đặt cọc may quần áo, thuê xe, nấu ăn để chuẩn bị cho đám cưới.Nhận định của Tòa án phúc thẩm:Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đều thừa nhận tại đám hỏi của anh D và chị N1 gia đình ông N có cho cô dâu các khoản có giá trị 37.968.000 đồng. Theo phong tục của người Việt Nam, đây được xem là điều kiện, tiền đề để hai bên gia đình tổ chức đám cưới.Tuy nhiên, sau đám hỏi thì đám cưới không diễn ra, gia đình bà C1 cho rằng gia đình nhà trai yêu cầu sử dụng 5.000.000 đồng tiền nạp tài đám cưới để thuê xe rước dâu và từ ngày xảy ra mâu thuẫn chị N1 không gặp cũng không liên lạc được với anh D.Hội đồng xét xử nhận thấy, nguyên nhân dẫn đến việc hủy đám cưới xuất phát từ cả hai gia đình, các bên không trực tiếp tìm hiểu thông tin, cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn để dẫn đến việc hủy đám cưới. Do đó, lỗi dẫn đến hủy đám cưới là của cả hai bên nên chỉ buộc chị N1 có nghĩa vụ trả lại ½ số vàng cưới tính trị giá thành tiền là 18.993.000 đồng, bà Đỗ Thị C1 có nghĩa vụ trả lại ½ trên số tiền 5.000.000 đồng là 2.500.000 đồng tiền nạp tài đám cưới cho ông N, bà H là phù hợp.Tòa án phúc thẩm quyết định:Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số 36/2018/DS-ST ngày 11/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng tặng cho có điều kiện” của ông Phan Văn N đối với chị Nguyễn Thị Thu N1, bà Đỗ Thị C1.
– Buộc chị Nguyễn Thị Thu N1 có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thúy H số tiền 18.993.000 đồng– Buộc bà Đỗ Thị C1 có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thúy H số tiền 2.500.000 đồng.
11-17
03“V/v Tranh chấp Hợp đồng tặng cho QSD đất”.Nội dung vụ án:Chồng cụ P là cụ Nguyễn Văn Thông (Chết năm 1989). Vợ chồng các cụ Thông, P có 07 con gồm: Nguyễn Văn Tứ (chết năm 2015 – vợ là Nguyễn Thị T), ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn Ngũ, chị Nguyễn Thị Kinh, anh Nguyễn Văn S, anh Nguyễn Văn S, anh Nguyễn Văn L.Các cụ Thông, P có thửa đất thổ cư số 64, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.448m2 tại khu 02, xã Văn B, huyện Cẩm K, tỉnh Phú Thọ. Năm 1989, cụ Thông chết không để lại di chúc, cụ P quản lý, sử dụng diện tích đất này.Ngày 18/11/1999, UBND huyện Sông Thao cấp GCN QSDĐ cho cụ Vi Thị P. Ngày 2/9/2014, cụ P tổ chức họp gia đình để chia đất cho các con trên cơ sở ai đã làm nhà vị trí nào, thì chia cho vị trí đó. Do ông Ngũ, chị Kinh từ chối không nhận, nên đất được chia cho 04 con, gồm: Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn L theo phần đất đã xây dựng.Đối với anh Nguyễn Văn L khi đó đang làm thuê ở thành phố Hà Nội, nên cụ P cùng 04 người con được chia đất thống nhất gửi suất đất chia cho anh L là khoảng 200m2 vào GCNQSD đất của gia đình ông Tứ, khi nào anh L về thì ông Tứ sẽ tách trả đất cho anh L.Khi ông Tứ xây nhà, cụ P ở cùng nhà gia đình ông Tứ. Năm 2002, cụ P sang ở cùng nhà anh T. Sau khi ông Tứ chết, nhiều lần cụ P bảo bà T tách đất trả cho anh L nhưng bà T không đồng ý tách nữa. Do mâu thuẫn nên tháng 9/2017, cụ P xây nhà ở riêng trên phần đất dự chia cho anh L.Nay cụ P, anh L khởi kiện yêu cầu gia đình bà T tách trả cho anh L khoảng 200m2 để làm nhà ở, còn nếu không thì cụ P yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với gia đình ông Tứ bị vô hiệu.Tại Bản án sơ thẩm quyết định:– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Vi Thị P và anh Nguyễn Văn L.– Xác nhận 183m2 đất vườn, trong tổng diện tích đất 650,5m2 tại thửa số 353, tờ bản đồ 08 tại khu 02 xã Văn B, huyện Cẩm K, tỉnh Phú Thọ thuộc quyền sử dụng của anh Nguyễn Văn L. Anh Nguyễn Văn L có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.Ngày 10/12/2018, bà Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung không
nhất trí bản án sơ thẩm.Nhận định của Tòa án phúc thẩm:Tại biên bản họp gia đình ngày 12/9/2014 không ghi điều kiện tặng cho
nhưng đã ghi “Riêng chú L do điều kiện sinh hoạt chưa ổn định, gia đình thống nhất khi nào chú L chuyển về quê hoặc có điều kiện làm nhà, các anh chị phải có trách nhiệm tách đất thổ cư hoặc hỗ trợ mua đất ngoài theo quy định của nhà nước”. Đây chính là điều kiện trong việc tặng cho mà các đương sự phải tuân thủ, xã Văn B là xã vùng quê, các hộ gia đình không có điều kiện khá giả, bản thân các đương sự trong vụ kiện đã có ý chia phần đất cho gia đình bà T nhiều nhất, giả sử 650,5m2 – 183m2 = 467,5m2 thì phần còn lại này của gia đình bà T vẫn là lớn nhất.Cụ P đã làm nhà riêng trên phần đất mà cụ đề nghị được cắt để chia cho anh L là sự tự nguyện của cụ, vừa phù hợp với tình cảm mẹ con, vừa thể hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con, vừa phù hợp với quyền bình đẳng của những người trong cùng hàng thừa kế. Như vậy là vừa phù hợp với đạo lý của con người vừa phù hợp với pháp luật.Tòa án phúc thẩm quyết định:– Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
– Xác nhận 183m2 đất vườn, trong tổng diện tích đất 650,5m2 tại thửa số 353, tờ bản đồ 08 tại khu 02 xã Văn B, huyện Cẩm K, tỉnh Phú Thọ thuộc quyền sử dụng của anh Nguyễn Văn L. Anh Nguyễn Văn L có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
18-2

Các bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có thể tham khảo thêm

Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Khi xử lý tranh chấp tặng quyền sử dụng đất, các bên thường có thể cân nhắc sử dụng các biện pháp như đàm phán, trọng tài hoặc đưa vụ việc ra Tòa án để giải quyết. Quá trình giải quyết tranh chấp sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật, bằng chứng và các yếu tố cụ thể của từng vụ việc. Bạn đọc có thể tham khảo thêm một số vụ án tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất sau đây:

Bản án số: 406/2019/DS-PT ngày 11/9/2019 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh

V/v “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản”.

Bản án số: 98/2019/DS-PT ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

V/v “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất”.

Bản án số: 20/2020/DS-PT ngày 12/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

V/v “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, tặng cho tài sản có điều kiện”.

Bản án số: 102/2020/DS-PT ngày 21/5/2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh

V/v “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở”.

Bản án số: 155/2020/DS-PT ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội

V/v “Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”

Mời bạn xem thêm:

Thông tin liên hệ:

Trên đây là bài viết của chúng tôi về vấn đề “Bản án hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”. Hãy theo dõi Luật đất đai để biết thêm nhiều kiến thức hay nhu cầu dịch tư vấn pháp lý về làm sổ đỏ đất thừa kế có di chúc nhé!

Câu hỏi thường gặp

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thuộc về ai?

Nếu các bên lựa chọn phương thức hòa giải, việc hòa giải sẽ được tự thực hiện hoà giải tại cơ sở, trường hợp không thành thì hoà giải tại UBND cấp xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.
Trường hợp hoà giải không thành, các bên có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân để giải quyết tranh chấp. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ là Tòa án nhân nhân cấp huyện hay Tòa án nhân nhân cấp tỉnh.
Theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp dân sự quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (bao gồm các tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự), do đó Tòa án nhân nhân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết đối với các vụ tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Tuy nhiên, đối với những tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (căn cứ theo điểm c Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015).

Hồ sơ khởi kiện tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất gồm những gì?

Khởi kiện tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, người khởi kiện cần chuẩn bị hồ sơ bao gồm các giấy tờ, tài liệu sau đây:
Đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (theo mẫu đơn số 23-DS ban hành kèm theo nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP)
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ khác có giá trị tương đương
Biên bản hòa giải (nếu có);
Giấy tờ tùy thân người khởi kiện
Giấy tờ khác có liên quan

5/5 - (1 vote)