Việc bố mẹ cho con đất là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam. Để cho con đất thì còn cần thực hiện nhiều quy trình. Trong trường hợp đất chung của gia đình thì bố mẹ muốn cho đất cho con thì phải có sự đồng ý và chữ ký của các thành viên còn lại. Để tìm hiểu thêm quy định về trường hợp này bạn đọc có thể tham khảo trong bài viết “Bố mẹ cho con đất có cần chữ ký của các con không?” của Luật đất đai nhé!
Cho con đất, cha mẹ cần xin ý kiến của những người con khác không?
Nếu con đã đủ tuổi và có năng lực hành vi, việc có yêu cầu chữ ký của các con có thể phụ thuộc vào sự đồng ý của chúng đối với việc bố mẹ chuyển nhượng đất. Trong một số trường hợp, việc đưa ra chữ ký của các con có thể được xem là một bước chứng thực và cam kết của chúng đối với giao dịch này.
Trường hợp đất là tài sản chung của cha, mẹ
Quy định về việc cần chữ ký của các con khi bố mẹ chuyển nhượng đất đai đảm bảo tính công bằng và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. Nếu con đã đủ tuổi và có năng lực hành vi, chữ ký của chúng cũng có thể yêu cầu để xác nhận sự đồng ý của chúng đối với việc bố mẹ chuyển nhượng đất. Việc đưa ra chữ ký của các con trong trường hợp này được coi là một bước chứng thực và cam kết của chúng đối với giao dịch này.

Trong trường hợp đất là tài sản chung của cha mẹ, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định một số nguyên tắc quan trọng để xác định quyền sở hữu và quản lý tài sản này.
Theo khoản 1 của Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vợ chồng được coi là bình đẳng với nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Điều này áp dụng cho tài sản mà vợ chồng đã tích lũy, đóng góp trong quá trình hôn nhân, và được coi là tài sản chung của họ.
Điều 35 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rằng vợ chồng sẽ thoả thuận về việc định đoạt và sử dụng tài sản chung, đặc biệt là khi tài sản chung bao gồm bất động sản như nhà, đất. Điều này đòi hỏi sự thoả thuận bằng văn bản từ cả hai bên, tức là vợ và chồng phải đồng tình và đạt được thỏa thuận bằng văn bản về việc quản lý và sử dụng tài sản chung.
Theo quy định của Luật, khi cha mẹ muốn tặng đất cho con thì chỉ cần có sự thoả thuận giữa ba và mẹ về việc này mà không cần xin ý kiến hay chữ ký của những người con khác.
Trường hợp đất là tài sản chung của cả hộ gia đình gồm cha mẹ và các người con
Yêu cầu chữ ký của các con có thể cũng nhằm đảm bảo rằng chúng hiểu và chấp nhận trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc sở hữu và quản lý tài sản. Điều này có thể bao gồm việc thông qua các biện pháp giáo dục hoặc tư vấn để đảm bảo các con hiểu rõ về quyền và trách nhiệm của mình.
Trong trường hợp đất là tài sản chung của cả hộ gia đình, bao gồm cha mẹ và các người con, quyền sở hữu và quản lý đất này được thể hiện thông qua Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc này phản ánh sự gắn kết trong quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng của các thành viên trong hộ gia đình.
Nếu cha và mẹ có ý định chuyển nhượng hoặc tặng đất cho một trong số những người con thì cần phải tuân thủ các quy định pháp luật về sở hữu và giao dịch tài sản chung. Cụ thể như sau:
Sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ gia đình: Bất kỳ giao dịch nào liên quan đến tài sản chung đều cần sự đồng thuận của tất cả các thành viên trong hộ gia đình, bao gồm cả cha mẹ và các người con. Điều này thể hiện sự tôn trọng và sự công bằng trong việc quản lý tài sản chung.
Văn bản uỷ quyền hoặc văn bản đồng ý được công chứng hoặc chứng thực: Nếu có trường hợp những người con không thể ký vào hợp đồng tặng cho, cần có văn bản uỷ quyền hoặc văn bản đồng ý từ những người này. Văn bản này cần được công chứng hoặc chứng thực để đảm bảo tính pháp lý và hiệu lực của giao dịch.
Tuân thủ các quy định pháp luật: Các quy định về giao dịch tài sản chung trong các văn bản pháp luật như Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Thông tư 02/2015/TT-NTNMT phải được tuân thủ đầy đủ và chính xác. Điều này bao gồm việc ghi tên người có quyền ký hợp đồng trên Sổ đỏ và thể hiện rõ ràng sự đồng thuận từ tất cả các thành viên trong hộ gia đình.
Như vậy, việc cha mẹ cho con đất trong trường hợp đất là tài sản chung của cả hộ gia đình thì cần phải xin chữ ký của những người con còn lại để có thể thực hiện giao dịch đúng theo quy định của pháp luật.
Bố mẹ cho con đất có cần chữ ký của các con không?
Theo quy định hiện hành tại Việt Nam, việc chuyển nhượng đất đai từ bố mẹ sang con em có yêu cầu chữ ký của các con. Điều này được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Theo Điều 111 Bộ luật Dân sự năm 2015, người dưới 18 tuổi không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Do đó, nếu các con chưa đủ tuổi, việc chuyển nhượng đất đai phải thông qua sự đại diện hoặc ủy quyền từ phụ huynh hoặc người giám hộ. Trong trường hợp này, chữ ký của người đại diện hoặc người được ủy quyền sẽ có giá trị pháp lý.

Căn cứ theo quy định, để biết cha mẹ có cần xin ý kiến và chữ ký của những người con khác không, phải xem xét hai trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Đất là tài sản chung của cha, mẹ
Căn cứ khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Đồng thời, tài sản chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Đặc biệt, căn cứ Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng sẽ thoả thuận về việc định đoạt, sử dụng tài sản chung và khi định đoạt tài sản chung là bất động sản (hay còn gọi là nhà, đất) phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng.
Do đó, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì khi cha mẹ muốn tặng cho con đất thì chỉ cần hai vợ chồng tự thoả thuận với nhau mà không cần xin ý kiến hay chữ ký của bất kỳ người nào khác kể cả những người con khác.
Như vậy, nếu nhà, đất là tài sản chung của cha mẹ thì khi muốn tặng cho một trong số những người con, cha mẹ chỉ cần thoả thuận với nhau, cùng nhau quyết định mà không cần phải xin ý kiến cũng như không cần chữ ký của những người con khác.
Thứ hai: Đất là tài sản chung của cả hộ gia đình gồm cha mẹ và các người con
Tài sản chung của hộ gia đình được hiểu là tài sản này thuộc quyền sử dụng, sở hữu và định đoạt của toàn bộ người của hộ gia đình đó. Cụ thể, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi tắt là Sổ đỏ) phải ghi “hộ ông/hộ bà/hộ ông bà/hộ…) thì nhà, đất này thuộc sở hữu của cả hộ gia đình khi có các điều kiện:
- Có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.
- Sống chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất…
- Có quyền sử dụng đất chung.
Căn cứ khoản 1 Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, khi làm hợp đồng nói chung, hợp đồng tặng cho nói riêng, trong hợp đồng phải có người có tên trên Sổ đỏ hoặc người được uỷ quyền ký tên.
Đồng thời, theo khoản 5 Điều 14 Thông tư 02/2015/TT-NTNMT, người có tên trên Sổ đỏ chỉ được ký hợp dồng tặng cho khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục đăng bộ sang tên sổ hồng như thế nào?
- Thủ tục sang tên sổ hồng khi chồng chết như thế nào?
- Sang tên sổ đỏ cho con hết bao nhiêu tiền?
Thông tin liên hệ:
Trên đây là bài viết của chúng tôi về vấn đề “Bố mẹ cho con đất có cần chữ ký của các con không?”. Hãy theo dõi Luật đất đai để biết thêm nhiều kiến thức hay nhu cầu dịch tư vấn pháp lý về luật giải quyết tranh chấp đất đai nhé!
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 4 – Thông tư số 257/2016/TT-BTC, phí công chứng hợp đồng tặng cho nhà, đất được tính dựa trên giá trị tài sản được ghi trong hợp đồng. Dưới đây là mức lệ phí cụ thể:
Giá trị tài sản dưới 50 triệu đồng: Lệ phí là 50.000 đồng.
Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng: Lệ phí là 100.000 đồng.
Từ trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng: Lệ phí là 0,1% của giá trị tài sản được ghi trong hợp đồng tặng cho.
Ví dụ, nếu giá trị tài sản trong hợp đồng tặng cho nhà, đất là 200 triệu đồng, lệ phí công chứng sẽ được tính như sau:
Lệ phí = 0,1% * 200 triệu đồng = 200.000 đồng.
Theo khoản 1 của Điều 43, trong trường hợp không có nội dung phức tạp, việc công chứng cần được hoàn thành trong khoảng thời gian không quá 02 ngày làm việc. Điều này đảm bảo sự thuận tiện và linh hoạt cho các bên tham gia, giúp họ có thể nhanh chóng hoàn tất các thủ tục liên quan đến việc công chứng.
Tuy nhiên, trong trường hợp có nội dung phức tạp, việc xác minh và công chứng có thể đòi hỏi thời gian lâu hơn. Khoản 2 của Điều 43 quy định rằng, trong các trường hợp này, thời gian làm việc không quá 10 ngày. Điều này cho phép các chuyên gia công chứng có đủ thời gian để nghiên cứu, kiểm tra, và xác minh tính chính xác của các tài liệu phức tạp, đồng thời bảo đảm sự minh bạch và đáng tin cậy của quá trình công chứng.